jeudi 30 décembre 2010

Tà Chánh Yếu Ngôn - Thánh giáo dạy về Nhơn Đạo rất hay của Đức Lý Giáo Tông



ĐÀN CƠ LẬP TẠI THANH QUANG THÁNH TỊNH
Đêm 15-2 Đại Đạo năm thứ 11 (1936)

Pháp Đàn   : Trần Công Bang
Chứng Đàn : Nguyễn Quang Châu
Đồng Tử     : Thanh Long, Bạch Hổ

THI
THÀNH tâm tiếp lịnh thọ Thiên ân,
HOÀNG chúc kim niên rõ chí thần;
BỔN phụng mạng hành linh Thánh bút
CẢNH trần còn lắm kẻ mê tân.

Mừng mỗi vị, vậy đại tịnh tiếp lịnh Lý Thái Bạch ta lui.

THI
LÝ chiếu hào quang thúc bóng thiều,
THÁI bình vạn loại hưởng ân nhiêu;
BẠCH minh tà chánh lời công luận
GIẢNG luận trời Nam buổi xế chiều.

Ta mừng chư Đệ, vậy khá thành tâm nghe Ta dạy.Vì nay đạo mở Trung Thiên, mà sanh chúng còn đương điệp hồ trong giấc mộng, vậy nay Ta giáng đây cho một quyền TÀ CHÁNH  YẾU  NGÔN đó gọi là kinh tỉnh mộng nghe.

THI TỰA
TÀ tây xâm lấn buổi lầm than,
CHÁNH lý khai cơ dạy rõ rang;
YẾU đạo chơn truyền tu giải mộng,
NGÔN từ giáo hóa chỉ đôi đàng.

PHÚ LỐI VĂN

Cuộc phong hóa sớm xây vần mãi mãi, kiếp thân phàm đành chịu gió chãi với sương dầm.

Lúc sanh tiền không lo un đúc miếng từ tâm khi tử hậu mới than thầm, ôi! đà quá muộn.

Gìn một kiếp thân sanh sao khỏi uổng, biết bao nhiêu lá ý muốn của con ma đời.

Sửa nhân luân nhờ nơi mối đạo Trời, kêu khách tục khá nghe lời giáo hóa.

Kìa cảnh tục đổi xây coi cũng lạ, biết lấy đâu mà hoằng hóa sửa ân sanh.

Nhìn cuộc thế châu rơi đà lã chã, cảnh thuần phong xem cũng lạ với thợ đời.

Biển ái hà sanh chúng chớ trò chơi. Còn lặn lội trong đời đừng mượn cảnh nghỉ ngơi mà lạc nẻo. Chóng lần lên cho khéo kẻo sa hầm.

Dặn tấc lòng lo thay đổi sửa lương tâm, lời ngon ngọt chóng nên tầm theo Chánh Đạo.

Cõi trần thế rõ xem tường là nơi mộng ảo diệt oan khiên, mà thấu đáo sửa cơ mầu.

Chớ mến yêu cự các, cao lầu, nầy là cõi bể dâu có chắc được bao lâu mà cũng hầu nương dựa.

Bốn vách khổ thật là không có cửa, sớm biết lo lần lựa mối chân thành.

Lời Phật, Tiên dạy dỗ đã đành rành, thức tỉnh mộng trống giục canh đà thúc đổ.

Kiếp sanh hóa lạc vào nơi bể khổ, đường vạy ngay lưỡng lộ sẵn kia kìa.

Lúc sống còn không rèn luyện trau tria, khi kiếp thác biết đâu về nơi cựu vị.

Nhìn cuộc thế thái rồi tới bỉ, dạy chúng sanh tìm đường sanh ký với tử qui. Kìa Trương Lương dưng dép dưới châu bì, công quả ấy còn ghi đền đáp trả.

Rày sanh-chúng có chi răn lạ.

Hễ “thực qua thì hậu quả đắc qua”.

Cõi trần gian chi thú cũng Ta bà, kìa hải đảo ngâm nga lời phú vịnh.

Quy Tam Giáo vừa nơi hội Bính.

Hiệp Ngũ Chi mà thức tỉnh đám ngây khờ.

Mượn bút thần sắc lịnh Ngọc cơ, bày lý diệu dạy đám mịt mờ trong bể khổ.

Truyền Đại Đạo lần ba Phổ Độ vì chúng sanh nên thi thố máy hành tàng, cả khắp nơi rực rực huy hoàng, đèn giác ngộ rõ ràng thêm sáng tỏ.

Phận cui cút đành chịu cơ lem với lọ, kẻ chá đầu người phỏng trán, mà ai có ra gì?
Sớm không lo học đạo từ bi, đành quen thói vô nghì hơi nực nội.

Máy luân chuyển sớm mai rồi cũng tối, mến lợi danh còn lặn lội chốn mê đồ.

Khá rèn lòng lo niệm chữ Nam Mô, mà thức giấc điệp hồ cơn sóng bủa.

Mồi vật chất nào là sa số gấm lụa, khiến cho người đều mê muội theo đời.

THI BÀI
Đời vừa lúc hạ nguơn mạt kiếp,
Thương chúng sanh giấc điệp mơ màng;
Pháp môn mở rộng con đàng,
Vạch câu tà chánh rõ ràng cao xa.
Hỡi nhơn loại ái hà mê muội,
Sao chẳng thông đạo buổi Tam kỳ;
Dạy đời giác ngộ quy y,
Biết câu chân lý biết kỳ hoằng khai.
Lời phổ hóa đôi bài lý yếu,
Cho chúng sanh được hiểu lựa lần.
Có công rồi cũng có phần,
Nhờ ơn chỉ lối mau lần bước lên.
Phải un đúc một nền phước hậu,
Máy hành tàng hiểu thấu lời Ta;
Mấy thu trong cõi Ta ba,
Bao lời Thánh huấn dạy ra nên tường.
Kiếp hầu chuyển tang thương khổ não,
Luật thiên nhiên cơ tạo nhiệm mầu;
Dạy đem Yếu Lý làm đầu,
Cho người tu niệm mới hầu quả xưa.
Đời lắm nổi nắng mưa ấm lạnh,
Biết đâu phân lời thánh tiếng phàm;
Mấy lời dạy lúc canh tam,
Mượn nhành dương liễu luận đàm lời khuyên.
Câu đạo đức cần chuyên vẹn nhớ,
Việc tu trì trả nợ bồi công;
Phải tua nao nức tấm lòng,
Biết dò nẻo chánh mới hòng nơi cao.
Trên gối điệp chiêm bao mơ tỉnh,
Gắng thành tâm vui thính lời Ta;
Thế gian đâu phải là nhà,
Không tu một kiếp khổ mà ngàn thu.
Phận cực khổ lo bù lúc khổ,
Kiếp nặng nề tìm chỗ giải oan;
Lời ta dạy thật rõ ràng,
Chúng sanh kíp lựa con đàng chánh chơn.
Kìa bể khổ thua hơn chi đó,
Kiếp con người gẫm có là bao;
Trau dồi đức trọng tài cao,
Biết ơn Tạo Hóa biết màu thiện tâm.
Lời giáo huấn canh thâm tường tất,
Các nguyên nhân vui thật trung hòa;
Hay chi chìm nổi ái hà,
Hôn mê linh tánh sa đà phù sanh.
Đừng ham muốn lợi danh ràng buộc,
Kiếp phù sanh phỏng được là bao;
Giới quy hai chữ làm đầu,
Học làm lý diệu tu cầu đức cao.
Nhìn trần cảnh biết bao nông nổi,
Khôn đành xem lạc lối tà tây;
Lời châu khuyên nhủ dạy bày,
Có lao lý mới mong ngày thanh cao.
Đời chẳng rõ phong trào luân chuyển,
Chuyển nhân tâm liệu biện sửa mình;
Có thân thì đức phải gìn,
Có phân tà chánh, mới tin sửa lòng.
Kẻo ngày tháng mắc trong ách khổ,
Dụng tam tông mà độ sửa đời;
Nhơn luân phong hóa đổi dời,
Phải tin rằng có Thầy Trời chủ trương.
Trai gìn trọn năm thường, ba mối,
Chớ tưởng lầm nhà tối vắng không;
Gái lo Tứ đức Tam tùng,
Nết na đằm thắm tư dung nhu mỳ.
Tròn nhơn đạo quy y theo Phật,
Dứt duyên trần Lục, Thất lánh xa;
Diệu đề chánh Đạo tìm ra,
Tam quy Ngũ giới ấy là pháp môn.
Dùng Đạo lực mở hồn sanh chúng,
Chí trượng phu nên dụng sửa đời;
Lặng xem dâu bể đổi dời,
Rõ thông cơ tạo biết thời Đạo khai.
Lời Thánh huấn trọn bài yếu lý,
Dạy chỉ rành phi thị đôi câu;
Chớ mê sang đẹp các lầu,
Vinh bao nhiêu lắm nhục hầu bấy nhiêu.
Ngựa qua cửa, bóng thiều nhặt thúc,
Sướng vui chi câu thúc chuyện đời;
Thinh thinh dưới đất trên Trời.
Thế gian là chỗ nghỉ ngơi lọc lừa.
Đời mau lẹ chiều trưa thấy đó,
Luật tuần huờn gẫm có bao lâu,
Rõ câu thiên ốc thiềm đầu,
Chớ rằng chẳng có lý mầu Thiên công,
Kìa kiếp tục não nần cho phận,
Còn đeo đai lận đận một đời;
Sớm còn hoi háp chút hơi,
Tranh đua sức mạnh cao lời ích chi?
Đời mạt kiếp nạn nguy nhiều nỗi,
Trả sao cho sạch tội tiền khiên;
Mới toan dồi luyện tánh thiêng,
Lọc lừa vật lụy tìm yên thiện từ.
Đời sanh chúng mang từ bao kiếp,
Phải tỉnh mê cho kịp sửa mình;
Bớt phen dăng díu nghĩa tình,
Học câu Bác ái Công bình Từ bi.

TIẾP BÀI
mầu nhiệm vô vi chỉ rõ,
TRƯỜNG công tu đến đó lãnh phần,
CANH tàn ngọc bút  bày phân,
Tiếp truyền chơn đạo mấy lần rồi đây.
Hỡi khách trần đắm say chung đỉnh,
Nghe lời khuyên mau tỉnh giấc hòe;
Cuộc đời còn lắm éo le,
Có vinh thì nhục ám dè theo sau.
Xem tàn linh lỡ đau lỡ khóc,
Khóc bớ người chớ học thói ma;
Nhìn xem mấy dặm quan hà,
Thật là bao nã thật là cam go.
Chúng sanh ôi! hiểu cho thấu đáo,
Hội Trung thiên Thánh Đạo ra đời;
Nắm dây nhờ có Thầy Trời,
Chỉ đường chơn lý khuyên mời khách mê.
Kiếp con người não nề cam phận,
Thói yêu ma lận đận bốn bề;
Thấy vầy Lão luống lòng ghê,
Ghê cho kẻ dại quên về cựu bang.
Chốn hồng trần tiền ngàn bạc vạn,
Nỗi dinh hư quả mãn cũng rồi;
Thế gian mấy kẻ yên ngồi,
Tấm thân hữu hoại nghĩ thôi chác lòng.
Về Tiên gia Trời trong mát mẻ,
Đài Kim liên hạc ré chực chầu;
Tràng phang bửu lạp kim châu,
Nào khi nhược thủy nào cầu ngân ô.
Khi dạo gót Thương ngô Túy liễu,
Lúc nhàn du Viễn kiệu Phương hồ;
Bồ đào rượu chước hồ lô,
Khoan khoan tiếng vịnh hoàn đồ Tiên ngâm.
Cảnh như vậy ai tầm bước đến;
Chỗ hồng gian yêu mến chi mà;
Sống đau rồi đã thấy già,
Nỗi con, nỗi vợ, nỗi nhà, nỗi lo.
Kiếp cam đành trong lò danh lợi,
Phận cút cui cũng ngợi danh trò;
Cứ ham chọn hạc đổi cò,
Thấy người có lợi lòng lo như người.
Tưởng tấm thân trọn đời bay nhảy,
Nợ trả vay khó chạy qua Trời;
Biết đâu phần phước đổi dời,
Lo chưa phỉ dạ luật Trời Diêm Vương.
Ối thôi thôi! Bốn tường rất khổ,
Tửu, dắt người đến chỗ mê man;
Lòng sanh kế xảo mưu gian,
Tửu trung quân tử lời vàng Lão khuyên.
Sắc, cám người lòng Tiên hóa tục,
Hại nguơn thần câu thúc khí tinh;
Lỡ thân vào chỗ trường tình,
Biết bao nông nổi thể hình ốm đau.
Tài, dục kẻ tham giàu đeo đuổi,
Trọn đời người sớm tối siêng lo;
Lòng tham muốn được lợi to,
Kể chi thân tộc miễn cho được phần.
Vì vật chất hư thân hại thể,
Vì tiền tài mất lễ mất nhơn;
Khí là phải chẳng đâu hơn,
Sân, si, ố, nộ, chẳng cần chẳng kiên.
Khiến cho người tâm điên trí đảo,
Thốt ra lời tàn bạo lầm sai;
Một lời, một quấy, một sai,
Xem trong nhân loại phiền tai dẫy đầy.
Cũng bởi đời giấc say chưa tỉnh,
Cám lòng thương linh tánh một bầy;
Vì thương Lão nhắc lời nầy,
Muốn thành Phật quả phải dày công tu.
Cuộc thế tàn mấy thu ngơ ngáo,
Chuyển Tam kỳ giáo đạo Nam bang;
Độ đời thoát chỗ lầm than,
Biết nơi Tiên CẢNH, Thiên đàng là đây.
Nhấm mùi đời biết cay biết đắng,
Chớ sa mê hụp lặn đắm chìm;
Xét rành tự cổ chí kim,
Mấy ai mê muội mà tìm được cao.
Cuộc đỏ đen anh đào phải lụy,
Lụy vào nơi tài, khí, tửu tham;
Mùi đời ai nếm cũng ham,
Cũng là một bổn tâm phàm dại khôn.
Mê giấc hòe lấp chôn thân thể,
Nợ mình gây chứa để dập dồn;
Làm cho xiêu lạc linh hồn,
Mất phần chơn tánh bảo tồn chi đâu.
Biển ái hà, càng sâu, càng thẳm,
Bớ đời ôi!! Chớ ngắm mà lầm;
Chôn người mất trí mất tâm,
Mất luôn tam bửu khó tầm linh căn.
Chẳng mấy khi hóa hoằng Chánh đạo,
Dạy cho đời tường đáo linh cơ;
Than ôi! khờ thiệt quá khờ,
Cứ ham đường tối mịt mờ nẻo ngay.
Vì thương người chỉ bày lý triết,
Trai năm hằng phải biết nghiệm suy;
Nhơn là cấm sát bất vi,
Nghĩa lo xong việc phải tùy theo cơn.
Lễ là lo chớ sờn lễ nghĩa,
Trí phải tri mỗi phía cuộc đời;
Tín là lòng chẳng sai dời,
Anh em bạn hữu mỗi lời gắn ghi.
Đạo tam cang phải tùy Nho giáo,
Nghĩa vua tôi giữ Đạo công bình;
Cha từ con thảo nên gìn,
Chồng hòa vợ kỉnh gia đình mới nên,
Khuyên Nam, Nữ đôi bên nên nghĩ,
Đạo từ xưa rành chỉ cho rồi;
Đau lòng lắm hỡi đời ôi,
Vì đâu quên cả hết rồi vậy a?
Phận Nữ nhi ngắm đà chua chát,
Chữ Tam Tùng phải tạc vào tâm;
Tùng cha thuở bé chớ lầm,
Lớn Tùng Phu phải công tâm với chồng.
Chồng tiên tử phải tùng chữ tử,
Vui trọn niềm bảy lự ba lo;
Ấy là luân lý nhà Nho,
Nay qua Thích Đạo học cho nhiệm mầu.
Đường qui giới đôi câu nhắc nhở,
Đạo khuyên đời trả nợ mình gây,
Muốn về Cực Lạc phương Tây?
Học theo Phật Pháp nghe Thầy giảng kinh.
Luận thử câu Công bình Bác ái,
Lo xong rồi đến Đại Từ bi;
Thương thay mấy kẻ vô nghì,
Quên đường tiên cảnh chờ khi người về.
Vì nhân loại thảm thê lầm lạc,
Đại Thiên Tôn phổ hóa ba kỳ;
Gầy chung đủ cả năm Chi,
Cả kêu khách tục trí tri hiểu tường.
Cuộc thế tàn tan thương biến cải,
Bớ nguyên nhân lưỡng phái nghe lời;
Chuyển xây gầy mối Đạo Trời,
Dạy người cải hóa dạy đời tu tâm.
Gặp thời gian còn lầm nhiều nỗi,
Khó chỉ đường vạch lối cao xa;
Chúng sinh còn hỡi lòng ma,
Phải tùy cơ Đạo truyền ra cứu đời.
Tồn dưỡng tánh hôm mai tập học,
Học cho xong lừa lọc mỗi người;
Mới là thấu đáo cơ Trời,
Mới tường mầu nhiệm thoát nơi hồng trần.
Chuyển ngũ hành tu tâm luyện tánh,
Gìn tam nguơn, đủ ảnh tam tài;
Thế tình còn nỗi lầm sai,
Nên Thầy Thượng Đế Cao Đài quy nguyên.
Đạo Thánh rồi Đạo Tiên mới chỉ,
Chỉ cho đời tường lý mê tâm;
Bớ ai chớ vội mà lầm,
Tam Thiên lục bách theo tầm đoạt ngôi.
Nhắc tới đây bồi hồi lòng Lão,
Hãy nghĩ coi khéo tạo như vầy;
Chít chiu nhơn loại một bầy,
Mở đường Tôn giáo nơi nầy giáo dân.
Trên Thiên đình cầm cân chơn lý,
Chẳng ai qua một lý tà tâm;
Khuyên đời nay dụng quốc âm,
Có theo thời cuộc cơ thâm máy Trời.
Gió văn minh đổi dời phong hóa,
Hóa nhơn tâm một bả điêu tàn;
Lỡ cười mà cũng lỡ than,
Tiếng kêu kẻ dại chứa chan lòng phàm.
Thấy tình đời sân tham ái dục,
Giục tánh mê chẳng chút nào hay;
Tứ tường say đã quá say,
Mê tâm muội tánh đặt bày sự ngoa.
Thấy như vậy lòng ta bức rức,
Giục chuông ngân tỉnh thức mộng trường;
Bớ đời thế thói chớ vương,
Vương ma danh vọng quên đường chánh nhơn,
Kẻ sang vinh khi hờn kẻ khó,
Ỷ mượn hơn tìm ngõ trớ trinh;
Còn chi hai chữ nghĩa tình,
Kẻ khôn người bợ thì mình càng lung.
Đội một trời cũng chung một giống,
Ở ngôi cao ưa giọng cúi chào (cười . . .),
Chào thưa vì bởi danh cao,
Mãi ham quyền lộc nhớ nào trời xanh.
Miễn lo cho của dành con cháu,
Tiền mồ hôi giọt máu kẻ nghèo;
Hay chi chung cuộc như bèo,
Linh đinh nhờ nước bỏ dèo trôi xuôi.
Lão nhắc thôi ngậm ngùi dạ ngọc,
Thấy mà đau muốn khóc, khóc òa;
Trần gian là cảnh Ta bà,
Lợi danh cho mấy khó mà khỏi suy.
Vinh trước rồi nhục thì sau đó,
Đỏ hết màu thì lọ luốc lem;
Nào ai biết chế biết kềm,
Biết đường tà chánh mà đem thân về.
Nghĩ gớm ghê kẻ chê người thị,
Thị sức mình nào nghĩ ngày sau;
Kiếp người gẫm thiệt là mau,
Trăm năm mấy kẻ được bầu tròn duyên.
Vì thương đời Lão khuyên đôi khúc,
Biết tìm nơi trong đục mà dò;
Không nài cái phận đói no,
Biết lo tu niệm, biết lo độ đời.
Đưa hiền lương về nơi thanh cảnh.
Được tiêu diêu sớm lánh cõi trần;
Bồ đào liên bửu tay nâng,
Đào viên yến ẩm chín tầng đờn reo.
Chim già lăng tiếng kêu thảnh thót,
Rượu Đề hồ châm rót khuyên mời;
Mời người thoát tục nhấm chơi,
Điệu tiên gẫm có khác đời lắm chăng?
Cảnh Bồng Lai khi thăng khi giáng,
Ngũ sắc vân chói rạng hừng Trời;
Không chiều, không sớm, không mơi,
Không danh, không lợi như đời phàm gian.
Không như thể khi tan khi hiệp,
Chẳng như đời mãn kiếp trầm luân;
Ai trông bách tuế mà mừng,
Mừng nầy đây thiệt là mừng oan khiên.
Ngày chí đêm than phiền nề não,
Nỗi nợ đòi hết gạo ai lo;
Mỗi ngày cái khổ càng to,
Đông con, đông cháu, còn lo nhiều bề.
Khi sớm mai cày thuê cuốc mướn,
Gáp nháp lần khi mượn khi vay;
Than ôi!! ai hỡi có hay,
Hay chi kẻ thế đắng cay như vầy.
Người sang vinh lại bày việc  mỵ,
Kẻ xoa mưu giục chí người cô;
Phỉnh phờ tiền của thâu vô,
Miễn cho đầy túi đầy bồ thì xong.
Dạ đao kiếm tấm lòng độc ác,
Cũng chẳng qua không chát thì chua;
Ỷ mình giành giựt hơn thua,
Tửu, trà, phú quý tranh đua nhộn nhàng.
Đắm bao nhiêu lòng càng điên đảo,
Mãn một đời tội báo trả vay;
Hết tài giỏi chạy cao bay,
Ôi thôi! Địa Phủ hôm nay đã đòi.
Của muôn ngàn khôn mua đặng sống,
Cháu còn đầy, thế ổng được chăng? (cười)
Mới hay Thiên đạo công bằng,
Chẳng tư chẳng vị kẻ hèn người sang.
Nghĩ cuộc đời chứa chan bao nã,
Đời chưa tròn bỗng đã mãn căn;
Đây rồi mới biết ăn năn,
Mới hay chánh lý là đèn phá ngu.
Mãn một kiếp đường tu còn vụng,
Nhắm mắt rồi mới uổng thân sinh;
Trầm luân mãi phận cam đành,
Cũng vì kiếp trước không dành duyên thêm.
Còn sang trọng còn em còn chú,
Hết tiền tài thúc thủ ngồi than;
Than ôi! Kim tận đầu sàng,
Vô phương tráng sĩ mưu toan chước tài.
Luật công bình nợ ai nấy trả,
Gầy bao nhiêu thì phá cũng đồng;
Luật Trời xem thiệt chí công,
Nghe lời Lão giảng mặn nồng phá tan.
Kiếp lỡ rồi tìm đàng trở lại,
Nợ trái oan cũng tại mình gây;
Dại khôn nỗi nọ thế này,
Kíp nghe lời khuyến mở dây oan trần.
Lo âm chất nhờ ân cứu khổ,
Học đạo mầu ráng giỏi công tu;
Biết rằng cực lạc ngao du,
Danh thơm còn rạng muôn thu chói ngời.
Lão luận thử đôi điều yếu lý,
Lý cao xa huyền bí cơ mầu;
Bớ ai cải quá hồi đầu,
Mùi đời chán ngán mới hầu Tiên gia.
Về cảnh Tiên chẳng xa gần tới,
Khỏi Tam quy, ngũ giới đến rồi;
Đó là phản bổn về ngôi,
Lánh lòng nô lệ cho đời rảnh rang.
Động Hồ Tiên du nhàn tự toại,
Chẳng tiền đòi nợ hỏi chi chi;
Dạo chơi Bạch Ngọc Liên Trì,
Vẽ cơ vui hứng cầm thi ngâm hòa.
Chẳng lo phần Cha già Mẹ yếu,
Cũng không màng bữa thiếu bữa no;
Nhàn du Tạo Hóa một lò,
Khi cờ tứ cảnh khi dò kim xa.
Chẳng như đời hư nhà nát cửa,
Nỗi nắng mưa nương dựa qua ngày;
Đường Tiên kẻ ép người này,
Sao không tỉnh ngộ mà quầy lên đây.
Về Phật quốc Phương Tây cực lạc,
Tắm cam lồ nước mát mùi thơm;
Rỡ ràng hoa trổ quả đơm,
Liên tòa bát ngát mùi thơm nực nồng.
Tiếng ngân nga Tiên đồng Phật tử,
Giọng khoan hòa hò xự không không;
Mỗi ngày luyện đủ lục thông,
Thông tri kiến sự độc tông vạn thùy.
Hết Thiên đường Âm ty Lão nhắc,
Qui vô thường dẫn dắt tội nhơn;
Ai mà chí chính chí nhơn,
Phướng Thần theo dõi là cơn đăng đàn.
Kẻ gây nghiệt trần gian ở lại,
Xử cho xong quấy phải hai đường;
Nghĩ mà thêm tiếc thêm thương,
Trần gian chung hưởng, Diêm vương một mình.
Nghĩ đến thôi càng kinh càng sợ,
Bởi vợ con, con vợ thế giùm;
Đến đây khó bọc khôn đùm, (Cười. . .)
Lót ngài nhiều ít mở cùm tha tôi.
Ôi thôi rồi! Chủ ngồi mới nhớ,
Cũng tại mình gây nợ thế gian;
Ai chừ nhắn nhủ hỏi han,
Khuyên trong thân tộc tìm đàng tu thân.
Quyết một lòng đai cân bỏ phế,
Giàu sang nghèo chẳng kể là ai;
Miễn cho khỏi xuống Diêm đài,
Quan dân trối mặc giới trai lo gìn.
Việc lỡ rồi mới tin Thần Thánh,
Khuyên chúng sanh dưỡng tánh tâm tồn;
Mong sao độ rỗi linh hồn,
Khỏi nơi hành phạt nợ dồn trái oan.
Nghĩ cuộc đời thương tang biến cải,
Vì chúng sanh lưỡng phái say mùi;
Đạo Trời mà hóa dễ duôi,
Cũng vì kẻ tối dắt đui đi đàng.
Nên Ngọc Đế Nam bang giáo Đạo,
Độ tàn linh thiện, bảo Nguơn thần;
Trọn quyền chẳng để phàm nhân,
E khi thay đổi lắm phần sai ngoa.
Vì sanh linh Lão đà ứa lụy,
Cõi Á đông phúc ký Đạo Trời;
Tam gia quyết tận độ đời,
Giao quyền chủ thống Thầy Trời độc tôn.
Bớ chúng sanh tĩnh hồn nghe hiểu,
Biện lý chơn toan liệu hai đường;
Lánh trần bỏ thói tư lương,
Học câu thiện niệm tầm đường về ngôi.
Miếng chung đỉnh như mồi rước khách,
Khách giác mê diệt sạch tâm trần;
Đổi làm thiện đức tân dân,
Thì coi chữ phú chữ bần như nhau.
Biết sửa đời mau mau hồi tỉnh,
Tỉnh nghe lời Tà Chánh Yếu Ngôn;
Độ nhơn, chơn tánh bảo tồn,
Trong veo lóng kỹ linh hồn chớ nhơ.

(Trích Kinh “Tà Chánh Yếu Ngôn” do Đức Lý Thái Bạch giáng cơ dạy Đạo)

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire